Học sinh lớp 8 tham khảo mẫu viết bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy hay nhất mới cập nhật 2025?
Viết bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy lớp 8 hay nhất?
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông nổi bật với giọng thơ trào phúng sắc sảo, đả kích sâu cay những bất công trong xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Tiến sĩ giấy, vạch trần thực trạng khoa cử phong kiến với những kẻ chỉ có danh mà không có thực tài.
Dưới đây là mẫu bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy lớp 8 hay nhất:
Mẫu 1: Bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy đầy đủ
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam, nổi bật với giọng thơ trào phúng sắc sảo, đả kích sâu cay những bất công trong xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Tiến sĩ giấy”, vạch trần thực trạng khoa cử phong kiến với những kẻ chỉ có danh mà không có thực tài. Nhan đề bài thơ đã gợi lên tính chất châm biếm ngay từ đầu. “Tiến sĩ” là học vị cao trong hệ thống khoa cử phong kiến, biểu trưng cho trí tuệ và tài năng. Tuy nhiên, khi đi kèm với chữ “giấy”, nó lại trở thành một thứ rỗng tuếch, không có giá trị thực sự. Tiến sĩ giấy không chỉ là món đồ chơi dân gian trong dịp Trung Thu mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kẻ ham danh hão, khoác lên mình vẻ ngoài hào nhoáng nhưng thực chất chỉ là thứ trống rỗng, giả tạo. Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh về một vị “Tiến sĩ” đầy đủ lễ nghi, cờ biển, cân đai, được gọi là “ông nghè” như bất cứ bậc khoa bảng nào khác. Điệp từ “cũng” lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh vẻ ngoài hào nhoáng, nhưng ẩn sâu trong đó là giọng điệu châm biếm đầy sắc sảo. Một vị Tiến sĩ giấy cũng có thể hưởng vinh hoa, nhưng thực chất chỉ là thứ trang trí vô nghĩa. Hình ảnh tiếp theo càng làm rõ hơn bản chất giả tạo ấy. Một mảnh giấy đơn giản cũng có thể tạo nên “thân giáp bảng”, chỉ cần thêm chút “phấn son” là đã trở thành bậc văn nhân. Nguyễn Khuyến đã sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng để tố cáo sự rỗng tuếch của nền khoa cử suy đồi. Những kẻ không có thực học, chỉ biết chạy theo danh lợi thì dù có khoác lên mình danh vị cũng chẳng có giá trị gì. Không dừng lại ở đó, tác giả tiếp tục xoáy sâu vào sự rẻ rúng của thứ danh vọng ấy. Một kẻ khoác áo tiến sĩ nhưng thực chất lại nhẹ bẫng như giấy. Ông nghè này chẳng phải trải qua những năm tháng đèn sách khổ luyện, chẳng phải dày công rèn giũa, vậy nên danh vọng mà hắn có được cũng chỉ là thứ “hời hợt”. Lời thơ như một nhát dao cắt xuyên qua lớp vỏ hào nhoáng, bóc trần bộ mặt của những kẻ cầu danh mà không có thực tài. Hai câu thơ kết thúc bài thơ chính là cú hạ màn đầy sắc bén. Một ông nghè giấy ngồi trên ghế tréo, lọng xanh trông bảnh chọe, tưởng như có giá trị lắm. Nhưng rốt cuộc, cái tưởng chừng như “đồ thật” hóa ra chỉ là “đồ chơi”. Một sự thật cay đắng nhưng lại vô cùng đúng đắn: danh vị mà không có tài năng chỉ là thứ vô nghĩa, giống như một món đồ chơi không có tác dụng gì ngoài việc trang trí. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” không chỉ phản ánh thực trạng khoa cử thời bấy giờ mà còn mang giá trị phê phán sâu sắc. Nó vạch trần bản chất của những kẻ ham danh lợi mà không chú trọng đến thực học, đồng thời nhắc nhở con người về giá trị chân chính của tri thức. Nguyễn Khuyến đã sử dụng nghệ thuật trào phúng bậc thầy, với ngôn từ sắc bén, hình ảnh giàu tính biểu tượng và giọng điệu mỉa mai thâm thúy để làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Dù đã trải qua hơn một thế kỷ, bài thơ vẫn mang tính thời sự, bởi trong xã hội hiện đại, vẫn còn những kẻ “Tiến sĩ giấy” khoe mẽ danh hiệu mà không có thực tài. Điều này khiến tác phẩm của Nguyễn Khuyến trở nên bất hủ, trường tồn với thời gian. “Tiến sĩ giấy” không chỉ là một bài thơ trào phúng xuất sắc mà còn là một bài học về giá trị thực sự của tri thức và nhân cách. |
Mẫu 2: Bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy chi tiết
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, nổi tiếng với phong cách trào phúng sắc sảo, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng châm biếm của ông, vạch trần bản chất giả tạo của những kẻ khoa bảng không có thực tài, chỉ biết khoe khoang danh vọng. “Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai, Cũng gọi ông nghè có kém ai.” Hai câu thơ mở đầu vẽ nên hình ảnh một vị Tiến sĩ với đầy đủ những lễ nghi, phẩm phục trang trọng. Tác giả sử dụng điệp từ “cũng” bốn lần để nhấn mạnh vẻ bề ngoài hào nhoáng của nhân vật. “Cờ”, “biển”, “cân đai” là những vật tượng trưng cho sự vinh hiển của bậc khoa bảng. “Ông nghè” là danh xưng dành cho những người đỗ Tiến sĩ, thể hiện sự kính trọng của xã hội đối với tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, giọng điệu mỉa mai của câu thơ khiến ta nhận ra rằng, dù có đầy đủ những thứ ấy, nhưng vị “ông nghè” này vẫn có gì đó không đúng, không thực chất. “Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, Phấn son tô điểm mặt văn khôi.” Hai câu thực đã lật mở sự thật về “Tiến sĩ giấy”. Hóa ra, cái thân phận lẫy lừng ấy chỉ được tạo nên từ một mảnh giấy mỏng manh. “Giáp bảng” vốn là danh hiệu dành cho người đỗ cao trong kỳ thi, nhưng ở đây, nó lại gắn liền với một vật vô giá trị như giấy, khiến danh hiệu này trở nên trống rỗng, hư ảo. “Phấn son” là thứ thường dùng để trang điểm cho phụ nữ, nhưng lại được dùng để “tô điểm” cho mặt “văn khôi” – người có tài văn chương. Điều này càng nhấn mạnh sự giả tạo, lố bịch, như một màn hóa trang để che giấu thực chất nghèo nàn phía sau. “Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Cái giá khoa danh ấy mới hời!” Hai câu luận tiếp tục đào sâu bản chất của danh vọng giả tạo. “Tấm thân xiêm áo” – tức là con người khoác lên bộ xiêm áo sang trọng, nhưng sao lại “nhẹ” đến thế? Ở đây, chữ “nhẹ” mang hai tầng ý nghĩa: vật chất và tinh thần. Về vật chất, Tiến sĩ giấy đúng nghĩa là “nhẹ” vì nó chỉ làm bằng giấy. Nhưng về tinh thần, nó cũng nhẹ bẫng bởi không có tri thức, không có thực tài, chỉ là danh hiệu rỗng. Câu thơ tiếp theo càng làm bật lên sự rẻ rúng của danh vọng. Một tấm bằng Tiến sĩ mà chẳng cần thực học, chẳng phải vất vả đèn sách, vậy thì “cái giá khoa danh ấy mới hời”. Câu thơ là một lời châm biếm sâu cay, chỉ trích những kẻ chạy theo danh vọng mà không có thực lực, biến học vấn thành một thứ có thể dễ dàng mua bán. “Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe, Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!” Hai câu kết là đỉnh cao của nghệ thuật trào phúng. “Ghế tréo lọng xanh” vốn là biểu tượng của sự quyền quý, cao sang, thường dành cho những bậc quan chức có địa vị. “Ngồi bảnh chọe” gợi lên hình ảnh một ông quan khoa bảng đang vênh vang, tự đắc với danh hiệu của mình. Nhưng trớ trêu thay, đến cuối cùng, cái tưởng là “đồ thật” hóa ra lại chỉ là “đồ chơi”. Hình ảnh kết thúc bài thơ không chỉ gây cười mà còn làm người đọc suy ngẫm: những kẻ như vậy chỉ là những con rối khoác lên mình danh hiệu, không có giá trị thực sự trong xã hội. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” không chỉ đơn thuần là một tác phẩm trào phúng mà còn mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó phản ánh sự suy đồi của hệ thống khoa cử phong kiến, nơi danh vọng có thể đạt được bằng hình thức mà không cần thực học. Đồng thời, bài thơ cũng là lời cảnh tỉnh cho xã hội mọi thời đại: nếu chạy theo danh lợi mà không có tài năng thực sự, con người sẽ trở thành những “Tiến sĩ giấy” – rỗng tuếch, vô nghĩa. Với giọng điệu châm biếm sâu cay, nghệ thuật đối lập sắc sảo và hình ảnh giàu tính biểu tượng, Nguyễn Khuyến đã để lại một tác phẩm trào phúng xuất sắc, vẫn còn nguyên giá trị đến tận ngày nay. |
Mẫu 3: Bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy gắn gọn
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của văn học trung đại Việt Nam, nổi tiếng với những tác phẩm trào phúng sắc sảo. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” là một tác phẩm tiêu biểu, vạch trần thực trạng khoa cử phong kiến và sự giả dối của những kẻ chỉ có danh mà không có thực tài. Bài thơ mở đầu với hình ảnh một vị Tiến sĩ đầy đủ cờ biển, cân đai, danh vị rạng rỡ như bao bậc khoa bảng khác. Điệp từ “cũng” nhấn mạnh sự hào nhoáng bên ngoài, nhưng ẩn chứa trong đó là giọng điệu châm biếm sâu cay. Hóa ra, vị Tiến sĩ này chỉ là một món đồ chơi bằng giấy, được “tô điểm” bằng phấn son, tượng trưng cho những kẻ hám danh, khoác lên mình vẻ ngoài lộng lẫy nhưng không có thực chất. Hai câu luận đẩy mạnh sự châm biếm khi tác giả đặt câu hỏi: tại sao một người mang xiêm áo sang trọng lại “nhẹ” đến thế? Bởi lẽ danh vị ấy không có nền tảng học vấn thực sự, chỉ là thứ “hời hợt” có thể dễ dàng mua bán. Câu kết bài thơ chính là đỉnh cao của nghệ thuật trào phúng: “Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!”. Một lời khẳng định dứt khoát, bóc trần sự thật rằng những kẻ “Tiến sĩ giấy” chỉ là hình nhân vô giá trị trong xã hội. Bài thơ mang giá trị phê phán sâu sắc, không chỉ phản ánh sự suy đồi của khoa cử phong kiến mà còn là bài học cho mọi thời đại. Nguyễn Khuyến đã để lại một tác phẩm trào phúng xuất sắc, khiến người đọc phải suy ngẫm về giá trị chân chính của tri thức và đạo đức. |
Lưu ý: Nội dung chỉ mang tính chất tham khảo!
Viết bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy lớp 8 hay nhất? Học sinh lớp 8 là bao nhiêu tuổi? (Hình từ Internet)
Học sinh lớp 8 là bao nhiêu tuổi?
Căn cứ Điều 28 Luật Giáo dục 2019 quy định về độ tuổi như sau:
Cấp học và độ tuổi của giáo dục phổ thông1. Các cấp học và độ tuổi của giáo dục phổ thông được quy định như sau:a) Giáo dục tiểu học được thực hiện trong 05 năm học, từ lớp một đến hết lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là 06 tuổi và được tính theo năm;b) Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 04 năm học, từ lớp sáu đến hết lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học. Tuổi của học sinh vào học lớp sáu là 11 tuổi và được tính theo năm;c) Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 03 năm học, từ lớp mười đến hết lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở. Tuổi của học sinh vào học lớp mười là 15 tuổi và được tính theo năm.2. Trường hợp học sinh được học vượt lớp, học ở độ tuổi cao hơn tuổi quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm:a) Học sinh học vượt lớp trong trường hợp phát triển sớm về trí tuệ;….
Theo đó, Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 04 năm học, từ lớp sáu đến hết lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học. Tuổi của học sinh vào học lớp sáu là 11 tuổi và được tính theo năm.
Như vậy, tuổi của học sinh lớp 8 là 13 tuổi trừ trường hợp học vượt lớp, học ở độ tuổi cao hơn
Các điều học sinh lớp 8 không được làm?
Căn cứ theo Điều 37 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định có 7 điều học sinh lớp 8 không được làm bao gồm:
Điều (1) Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, người khác và học sinh khác.
Điều (2) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi, tuyển sinh.
Điều (3) Mua bán, sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất gây nghiện, các chất kích thích khác và pháo, các chất gây cháy nổ.
Điều (4) Sử dụng điện thoại di động, các thiết bị khác khi đang học tập trên lớp không phục vụ cho việc học tập và không được giáo viên cho phép.
Điều (5) Đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.
Điều (6) Sử dụng, trao đổi sản phẩm văn hóa có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy; sử dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của bản thân.
Điều (7) Học sinh không được vi phạm những hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật.
Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt