Hoàn cảnh ra đời của Trung ương Cục miền Nam như thế nào? Vai trò của Trung ương Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
Trung ương Cục miền Nam ra đời trong hoàn cảnh nào? Vai trò của Trung ương Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
1. Trung ương Cục miền Nam ra đời trong hoàn cảnh nào?
Tháng 3 năm 1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khóa II) quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Thọ làm Phó Bí thư. Sau đó, đồng chí Lê Đức Thọ được cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Hùng làm Phó Bí thư. Ngày 6/9/1954, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, lập lại Xứ ủy Nam Bộ và các Khu ủy.
Ngày 23/01/1961, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) quyết định thành lập lại Trung ương Cục miền Nam. Đầu 1965, Trung ương Cục được giao nhiệm vụ chỉ đạo Nam bộ và cực Nam Trung bộ, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy Nam bộ, đảm nhận trọng trách Bí thư Trung ương Cục.
Trung ương Cục miền Nam ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt. Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước bị chia cắt, miền Nam rơi vào ách thống trị của chính quyền Ngô Đình Diệm với sự hậu thuẫn của Mỹ. Chính quyền Sài Gòn thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt, tiến hành các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, thẳng tay truy lùng và tiêu diệt những người kháng chiến cũ, gây tổn thất lớn cho phong trào cách mạng.
2. Vai trò của Trung ương Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
Trung ương Cục miền Nam đóng vai trò cơ quan đại diện của Trung ương Đảng tại chiến trường miền Nam, với nhiệm vụ chỉ đạo toàn diện cuộc đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cơ quan này phụ trách lãnh đạo lực lượng vũ trang, tổ chức phong trào đấu tranh chính trị, củng cố căn cứ địa và xây dựng chính quyền cách mạng ở các vùng giải phóng. Cụ thể:
2.1. Lãnh đạo toàn diện phong trào cách mạng miền Nam
Trung ương Cục miền Nam được thành lập năm 1961, đóng vai trò là cơ quan đại diện của Trung ương Đảng tại chiến trường miền Nam. Cơ quan này trực tiếp chỉ đạo các mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo sự thống nhất và linh hoạt trong công tác lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhờ đó, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, từng bước làm suy yếu chính quyền Sài Gòn.
2.2. Chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng quân sự
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đặc biệt là Quân giải phóng miền Nam, được củng cố và phát triển. Cơ quan này chỉ đạo các chiến dịch quân sự quan trọng như Chiến dịch Bình Giã (1964-1965), Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang và rút quân khỏi miền Nam.
2.3. Tổ chức phong trào đấu tranh chính trị, binh vận
Bên cạnh đấu tranh vũ trang, Trung ương Cục cũng chỉ đạo phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp, từ nông thôn đến đô thị. Các phong trào biểu tình, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, phản đối chính quyền Sài Gòn và sự can thiệp của Mỹ được tổ chức mạnh mẽ, đặc biệt là ở Sài Gòn – Gia Định và các đô thị lớn. Ngoài ra, công tác binh vận được đẩy mạnh, góp phần làm suy yếu tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn.
2.4. Xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng
Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ… Tiêu biểu là căn cứ Bắc Tây Ninh – “Thủ đô kháng chiến” của miền Nam, nơi đặt trụ sở của Trung ương Cục và các cơ quan đầu não. Các vùng căn cứ này không chỉ là nơi trú ẩn an toàn mà còn là hậu phương vững chắc, cung cấp nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến.
2.5. Góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục, phong trào cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh, tạo tiền đề cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Cơ quan này có vai trò quan trọng trong việc tổ chức, lãnh đạo các trận đánh chiến lược, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trung ương Cục miền Nam ra đời trong hoàn cảnh nào? Vai trò của Trung ương Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? (Hình từ Internet)
Sinh viên có bắt buộc học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh?
Căn cứ Điều 12 Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh 2013 có quy định như sau:
Trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học1. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học là môn học chính khóa.2. Bảo đảm cho người học có kiến thức cơ bản về quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; bổ sung kiến thức về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự; sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc.3. Tổ chức dạy và học tập trung tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh hoặc trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học. Trong chương trình đào tạo, căn cứ vào điều kiện cụ thể phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan tổ chức cho người học nghiên cứu, học tập ngoại khoá với nội dung và hình thức thích hợp.
Theo đó, môn Giáo dục quốc phòng và an ninh ở cấp đại học là môn học chính khóa, cho nên sinh viên đại học bắt buộc phải học môn này.
Nguyên tắc giáo dục quốc phòng và an ninh?
Theo Điều 4 Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh 2013 các nguyên tắc giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm:
– Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
– Giáo dục quốc phòng và an ninh là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
– Kết hợp giáo dục quốc phòng và an ninh với giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến, giáo dục pháp luật và gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
– Giáo dục toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm bằng các hình thức phù hợp; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa lý thuyết và thực hành.
– Chương trình, nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh phải phù hợp với từng đối tượng, đáp ứng kịp thời tình hình thực tế.
– Bảo đảm bí mật nhà nước, tính kế hoạch, kế thừa, phát triển, khoa học, hiện đại, dễ hiểu, thiết thực và hiệu quả.
Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt