Mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan hay nhất? Một lớp học của học sinh lớp 7 có bao nhiêu học sinh?

Học sinh tham khảo mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan (mở...



Học sinh tham khảo mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan (mở bài so sánh 2 tác phẩm thơ) hay nhất?






Mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà huyện thanh quan hay nhất?

Học sinh tham khảo mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà huyện thanh quan (mở bài so sánh 2 tác phẩm thơ) hay nhất?

Mẫu 1:

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, hai nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương đều để lại dấu ấn sâu sắc với những tác phẩm trữ tình đặc sắc. Nếu như Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh Trôi Nước thể hiện thân phận người phụ nữ với những bi kịch và vẻ đẹp kiên cường, thì Bà Huyện Thanh Quan trong Qua Đèo Ngang lại gửi gắm nỗi cô đơn, hoài niệm về quá khứ và sự suy ngẫm về cuộc đời khi đứng trước thiên nhiên hoang sơ. Hai bài thơ tuy khác nhau về nội dung nhưng đều mang phong vị trữ tình sâu lắng, thể hiện tâm tư của những người phụ nữ tài hoa trong xã hội phong kiến.

Qua Đèo Ngang được sáng tác khi Bà Huyện Thanh Quan trên đường từ Bắc vào Huế nhậm chức. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng của Đèo Ngang, bà đã bộc lộ nỗi buồn man mác, cô đơn và nỗi nhớ quê hương da diết.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Hai câu thơ mở đầu phác họa một không gian thiên nhiên hùng vĩ nhưng mang màu sắc hoang sơ, vắng vẻ. Hình ảnh “bóng xế tà” gợi lên buổi chiều tà – thời điểm dễ khơi gợi nỗi buồn và sự cô đơn trong lòng người. Cảnh vật được miêu tả bằng nghệ thuật đối lập “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, thể hiện sự hoang dã, xơ xác của thiên nhiên nhưng đồng thời cũng có chút sức sống ẩn hiện.

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Cảnh vật thiên nhiên rộng lớn nhưng con người lại nhỏ bé, thưa thớt. Những “chú tiều” (người đốn củi) “lom khom” dưới núi, những ngôi chợ “lác đác” bên sông gợi lên sự hiu quạnh, vắng vẻ của vùng đất này. Nghệ thuật đảo trật tự từ (“lom khom”, “lác đác”) càng nhấn mạnh sự cô đơn, tĩnh mịch của khung cảnh.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”

Tiếng chim quốc và chim gia gia (gà rừng) vang lên trong không gian tĩnh lặng càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của nhà thơ. Các từ “đau lòng”, “mỏi miệng” kết hợp với âm điệu tha thiết của câu thơ cho thấy tâm trạng day dứt, đầy tâm sự.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Hình ảnh “trời, non, nước” bao la nhưng con người lại chỉ có “một mảnh tình riêng” nhỏ bé, lạc lõng giữa không gian rộng lớn. Điệp từ “ta với ta” diễn tả sự cô đơn tột cùng – chỉ có bản thân mình đối diện với chính mình, không ai thấu hiểu.

Nếu Bánh Trôi Nước của Hồ Xuân Hương thể hiện thân phận người phụ nữ với ý chí kiên cường giữa những thử thách của cuộc đời, thì Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan lại là bức tranh thiên nhiên hoang sơ thấm đượm nỗi cô đơn, nhớ nước, thương nhà. Cả hai bài thơ đều chứa đựng những tình cảm sâu sắc, thể hiện tấm lòng và tâm hồn của những người phụ nữ tài năng trong xã hội phong kiến. Qua Đèo Ngang không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn là lời tự sự đầy xúc động về nỗi lòng của một con người xa quê, mang theo bao tâm sự về thời thế và cuộc đời.

Mẫu 2:

Trong thơ ca Việt Nam, thiên nhiên không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn là phương tiện để các thi nhân gửi gắm tâm trạng. Nếu Cảnh khuya của Hồ Chí Minh miêu tả khung cảnh thiên nhiên rừng núi lúc đêm khuya để thể hiện sự thao thức của một người chiến sĩ cách mạng lo nghĩ cho vận mệnh đất nước, thì Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan lại khắc họa cảnh hoang sơ của núi rừng lúc hoàng hôn, từ đó bộc lộ nỗi cô đơn và hoài niệm về thời cuộc. Dù cách nhau về thời đại và hoàn cảnh sáng tác, cả hai bài thơ đều thể hiện sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên, nhưng trong khi Cảnh khuya mang tinh thần lạc quan, tràn đầy khí thế cách mạng, thì Qua Đèo Ngang lại chất chứa nỗi buồn man mác của một con người đứng giữa ranh giới giữa quá khứ và hiện tại.

Ngay từ hai câu thơ đầu, Bà Huyện Thanh Quan đã phác họa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, nhuốm màu cô tịch:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Thời điểm “bóng xế tà” không chỉ là khoảnh khắc chuyển giao giữa ngày và đêm, mà còn gợi lên sự trầm lặng, mang màu sắc buồn bã. Địa danh Đèo Ngang – nơi ranh giới giữa hai vùng đất – càng làm tăng thêm cảm giác chơi vơi, lạc lõng của người lữ khách xa quê. Hình ảnh thiên nhiên tuy có sự sống nhưng lại xen lẫn giữa đá và cỏ cây, giữa lá và hoa, gợi lên sự đan xen giữa sự sống và hoang vu, như chính tâm trạng ngổn ngang của tác giả.

Trái ngược với bức tranh thiên nhiên hoang sơ và nhuốm màu tâm trạng trong Qua Đèo Ngang, bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh lại khắc họa một không gian đầy sức sống:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Hình ảnh “tiếng suối trong” và “trăng lồng cổ thụ” tạo nên một khung cảnh thiên nhiên huyền ảo, trong trẻo, gợi lên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người.

Trong bài thơ Qua Đèo Ngang, con người xuất hiện nhưng vô cùng thưa thớt:

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (lom khom, lác đác) để nhấn mạnh sự thưa thớt, vắng vẻ của nơi này. Những người tiều phu “lom khom” và những mái nhà “lác đác” không đủ để làm cho không gian trở nên ấm cúng, mà ngược lại càng làm tăng cảm giác quạnh hiu, lạc lõng.

Trong khi đó, Cảnh khuya tuy không trực tiếp miêu tả con người, nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ là hình ảnh một người chiến sĩ thao thức, chưa ngủ vì lo nghĩ cho nước nhà:

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Câu thơ không chỉ là lời giải thích cho tâm trạng của nhà thơ mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm lớn lao, sự trăn trở của người chiến sĩ cách mạng. Ở đây, dù con người xuất hiện trong trạng thái lặng lẽ, nhưng không hề cô đơn mà luôn hướng về dân tộc, đất nước.

Nếu Cảnh khuya thể hiện tấm lòng yêu nước của Hồ Chí Minh bằng hình ảnh thiên nhiên rực rỡ, thì Qua Đèo Ngang lại chứa đựng nỗi nhớ nước thương nhà sâu sắc thông qua hình ảnh của những loài chim:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Hình ảnh con chim “quốc quốc” và “gia gia” không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà còn là biểu tượng của tâm trạng hoài niệm. Chim “quốc” kêu như nhắc nhở nỗi nhớ quê hương, trong khi “cái gia gia” lại là tiếng vọng của tình cảm gia đình. Cách dùng từ láy tượng thanh (quốc quốc, gia gia) khiến nỗi nhớ càng trở nên da diết hơn, như thể mỗi tiếng chim kêu đều vang vọng trong lòng thi nhân, đánh thức những cảm xúc thầm kín nhất.

Trái ngược với nỗi nhớ thương u sầu trong Qua Đèo Ngang, Cảnh khuya lại thể hiện tình yêu nước một cách mạnh mẽ và tràn đầy hy vọng. Sự thao thức của Hồ Chí Minh không chỉ là nỗi niềm riêng tư mà còn là sự trăn trở cho vận mệnh dân tộc.

Hai câu thơ cuối của Qua Đèo Ngang khắc họa tâm trạng cô đơn đến tận cùng của nhân vật trữ tình:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Hình ảnh trời, non, nước – ba yếu tố rộng lớn của thiên nhiên – khiến con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng. Câu thơ cuối với cụm từ “ta với ta” thể hiện sự cô độc tuyệt đối, khi tác giả chỉ còn có thể trò chuyện với chính mình giữa không gian mênh mông.

Ngược lại, Cảnh khuya kết thúc bằng một câu thơ không mang nỗi cô đơn cá nhân mà chứa đựng tinh thần trách nhiệm với đất nước:

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Câu thơ vừa thể hiện sự thao thức của một con người mang tầm vóc lớn lao, vừa khơi gợi niềm tin vào tương lai, khác hẳn với cái kết khép lại đầy lẻ loi trong Qua Đèo Ngang.

Dù cùng lấy thiên nhiên làm chất liệu chủ đạo, nhưng Qua Đèo Ngang và Cảnh khuya lại thể hiện hai tâm trạng khác biệt. Một bên là nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà đầy hoài niệm của Bà Huyện Thanh Quan, một bên là sự thao thức, lo lắng nhưng cũng đầy hy vọng của Hồ Chí Minh. Sự khác biệt này phản ánh hoàn cảnh và tư tưởng của hai tác giả: một người mang nỗi buồn trước cảnh nước nhà đổi thay, một người kiên cường hướng về tương lai của dân tộc. Chính vì vậy, cả hai bài thơ đều có giá trị sâu sắc, không chỉ về nghệ thuật mà còn về tư tưởng và cảm xúc con người.

Lưu ý: Mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan (mở bài so sánh 2 tác phẩm thơ) hay nhất chỉ mang tính tham khảo!

Mẫu phân tích bài thơ qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan (mở bài so sánh 2 tác phẩm thơ) hay nhất? (Hình từ Internet)

Một lớp học của học sinh lớp 7 có bao nhiêu học sinh?

Theo khoản 3 Điều 16 Điều lệ ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định sĩ số của một lớp như sau:

Lớp học Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể số học sinh trong mỗi lớp học theo hướng giảm sĩ số học sinh trên lớp; bảo đảm mỗi lớp học ở các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông có không quá 45 học sinh.….

Như vậy một lớp học của học sinh lớp 7 không được quá 45 học sinh trong một lớp.

Hoạt động giáo dục của học sinh lớp 7 là gì?

Căn cứ Điều 19 Điều lệ ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định hoạt động giáo dục của học sinh lớp 7 như sau:

– Các hoạt động giáo dục thực hiện theo kế hoạch giáo dục của nhà trường, được tổ chức trong và ngoài giờ lên lớp, trong và ngoài khuôn viên nhà trường, nhằm thực hiện chương trình các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

– Hoạt động giáo dục thông qua một số hình thức chủ yếu: học lí thuyết, làm bài tập, thực hành, thí nghiệm, thực hiện các dự án học tập, tham quan, cắm trại, đọc sách, sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ, hoạt động phục vụ cộng đồng.



Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt