Tham khảo thêm về lười biếng là gì? Dẫn chứng về sự lười biếng? Viết đoạn văn 200 chữ về sự lười biếng? Đánh giá thường xuyên đối với môn Ngữ văn lớp 9 ra sao?
Lười biếng là gì? Dẫn chứng về sự lười biếng? Viết đoạn văn 200 chữ về sự lười biếng?
Lười biếng là một trạng thái tâm lý thể hiện ở việc thiếu động lực, không muốn làm việc hoặc hoàn thành nhiệm vụ. Người lười biếng thường trì hoãn, tìm cách tránh né công việc và không có ý chí phấn đấu.
*Dẫn chứng về sự lười biếng của học sinh
Sự lười biếng thể hiện rõ ràng nhất ở các hành vi và thói quen hàng ngày của học sinh. Dưới đây là một số ví dụ điển hình:
– Trong học tập:
Trì hoãn làm bài tập: Thay vì làm bài tập, học sinh thường dành thời gian cho các hoạt động giải trí như chơi game, xem phim.
Không muốn tìm hiểu bài mới: Học sinh thường ngại đọc sách giáo khoa, làm bài tập, dẫn đến kiến thức không vững.
Không tham gia các hoạt động ngoại khóa: Học sinh thường từ chối tham gia các câu lạc bộ, hoạt động thể thao, văn nghệ vì cho rằng nó mất thời gian.
– Trong cuộc sống hàng ngày:
Không muốn dọn dẹp phòng: Phòng ốc luôn bừa bộn, đồ đạc vứt lung tung.
Không muốn tập thể dục: Thường xuyên bỏ qua các buổi tập thể dục, dẫn đến sức khỏe giảm sút.
Không muốn giúp đỡ gia đình: Học sinh thường né tránh việc nhà, chỉ muốn được phục vụ.
Các bạn học sinh lớp 9 có thể tham khảo một số mẫu dưới đây:
Viết đoạn văn 200 chữ về sự lười biếng Ví dụ 1: Tập trung vào nguyên nhân của sự lười biếng Lười biếng, một căn bệnh tinh thần tưởng chừng đơn giản nhưng lại ẩn chứa nhiều nguyên nhân sâu xa. Áp lực cuộc sống quá lớn khiến nhiều người cảm thấy mệt mỏi, chán nản, từ đó sinh ra thái độ trì hoãn, không muốn làm việc. Bên cạnh đó, sự thiếu mục tiêu rõ ràng cũng là một trong những nguyên nhân chính. Khi không có động lực thúc đẩy, con người dễ dàng sa vào lối sống thụ động, không có ý chí phấn đấu. Ngoài ra, môi trường sống cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thói quen lười biếng. Nếu sống trong một môi trường thiếu sự khuyến khích, thiếu kỷ luật, con người sẽ dễ dàng hình thành thói quen xấu này. Ví dụ 2: Tập trung vào hậu quả của sự lười biếng Sự lười biếng, nếu không được khắc phục kịp thời, sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, nó ảnh hưởng đến kết quả học tập và công việc. Người lười biếng thường đạt kết quả thấp, không được đánh giá cao. Thứ hai, lười biếng làm giảm sút sức khỏe. Thiếu vận động, ăn uống không điều độ dẫn đến các bệnh về tim mạch, béo phì. Cuối cùng, lười biếng khiến con người cô lập bản thân, khó hòa nhập với cộng đồng. Họ thường cảm thấy chán nản, tự ti, cô đơn. Ví dụ 3: Tập trung vào cách khắc phục sự lười biếng Để khắc phục tính lười biếng, chúng ta cần bắt đầu từ việc xác định nguyên nhân. Sau đó, hãy đặt ra những mục tiêu nhỏ, thực tế và chia nhỏ công việc thành những phần nhỏ hơn để dễ dàng hoàn thành. Bên cạnh đó, việc tạo ra một môi trường làm việc hoặc học tập thoải mái cũng rất quan trọng. Cuối cùng, hãy thưởng cho bản thân khi hoàn thành mục tiêu để tạo thêm động lực. Ví dụ 4: Lười biếng thường đi đôi với sự trì hoãn. Thay vì hành động ngay, người lười biếng luôn tìm cách trì hoãn công việc đến phút cuối. Họ nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian, hoặc đơn giản là không muốn bắt đầu. Sự trì hoãn này tạo ra một vòng luẩn quẩn: càng trì hoãn, công việc càng chồng chất, và càng khó để bắt đầu. Hậu quả là, chất lượng công việc giảm sút, gây ra áp lực tâm lý và ảnh hưởng đến các mối quan hệ. Lười biếng và trì hoãn như một chiếc xiềng xích trói buộc con người, khiến họ không thể phát huy hết khả năng của bản thân. |
*Lưu ý: Thông tin về Lười biếng là gì? Dẫn chứng về sự lười biếng? Viết đoạn văn 200 chữ về sự lười biếng? chỉ mang tính chất tham khảo./.
Lười biếng là gì? Dẫn chứng về sự lười biếng? Viết đoạn văn 200 chữ về sự lười biếng? Đánh giá thường xuyên đối với môn Ngữ văn lớp 9 ra sao? (Hình từ Internet)
Đánh giá thường xuyên đối với môn Ngữ văn lớp 9 ra sao?
Căn cứ tại Điều 6 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT có quy định như sau:
Đánh giá thường xuyên1. Đánh giá thường xuyên được thực hiện thông qua: hỏi – đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập.2. Đối với một môn học, mỗi học sinh được kiểm tra, đánh giá nhiều lần, trong đó chọn một số lần kiểm tra, đánh giá phù hợp với tiến trình dạy học theo kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn, ghi kết quả đánh giá vào sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học) để sử dụng trong việc đánh giá kết quả học tập môn học theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư này, như sau:a) Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét (không bao gồm cụm chuyên đề học tập): mỗi học kì chọn 02 (hai) lần.b) Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số (không bao gồm cụm chuyên đề học tập), chọn số điểm đánh giá thường xuyên (sau đây viết tắt là ĐĐGtx) trong mỗi học kì như sau:- Môn học có 35 tiết/năm học: 02 ĐĐGtx.- Môn học có trên 35 tiết/năm học đến 70 tiết/năm học: 03 ĐĐGtx.- Môn học có trên 70 tiết/năm học: 04 ĐĐGtx…..
Như vậy, đối với một môn học, mỗi học sinh được kiểm tra, đánh giá nhiều lần. Do môn Ngữ văn lớp 9 có trên 70 tiết/năm học cho nên có 4 bài đánh giá thường xuyên.
Chương trình môn Ngữ Văn sẽ rèn luyện những kỹ năng nào?
Căn cứ theo Mục 2 Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn, ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT chương trình môn Ngữ văn tuân thủ các quy định cơ bản được nêu trong Chương trình tổng thể, đồng thời nhấn mạnh một số quan điểm sau:
– Chương trình được xây dựng trên nền tảng lí luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ văn; thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam qua các thời kì; kinh nghiệm xây dựng chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam, đặc biệt từ đầu thế kỉ XXI đến nay và xu thế quốc tế trong phát triển chương trình nói chung, chương trình môn Ngữ văn nói riêng những năm gần đây, nhất là chương trình của những quốc gia phát triển; thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hoá Việt Nam, đặc biệt là sự đa dạng của đối tượng học sinh xét về phương diện vùng miền, điều kiện và khả năng học tập.- Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.- Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.- Chương trình vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của các chương trình môn Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành.
Như vậy, một trong 4 quan điểm trên thì chương trình môn Ngữ Văn sẽ rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học.
Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt