Tìm hiểu thời gian lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam được thành lập? Thiết bị dạy học trong môn Lịch sử được trang bị những gì?
Lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam được thành lập vào ngày tháng năm nào?
Lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam chính thức được thành lập vào ngày 15 tháng 7 năm 1950, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự kiện này đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, ghi nhận sự ra đời của một lực lượng vũ trang cách mạng đặc biệt, đóng góp to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
*Mời các bạn học sinh tham khảo một số thông tin về lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam được thành lập vào ngày tháng năm nào dưới đây nhé!
Lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam Ý nghĩa lịch sử Ngày 15/7 hàng năm được chọn là Ngày truyền thống lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam. Đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta và lực lượng Thanh niên xung phong cả nước ôn lại truyền thống hào hùng của lực lượng Thanh niên xung phong, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh, đóng góp to lớn của các thế hệ Thanh niên xung phong đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vai trò của lực lượng thanh niên xung phong Trong kháng chiến chống Pháp: Thanh niên xung phong đã tham gia vào hầu hết các chiến dịch lớn, đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng như: xây dựng công sự, thông tin liên lạc, vận chuyển vũ khí, lương thực, chăm sóc thương binh, bóc mìn, sửa chữa đường xá, cầu cống… Trong kháng chiến chống Mỹ: Thanh niên xung phong tiếp tục phát huy truyền thống, tham gia vào các chiến trường ác liệt, đảm nhận nhiều nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Thanh niên xung phong đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong công cuộc xây dựng đất nước: Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thanh niên xung phong đã tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng lại đất nước, đặc biệt là các công trình trọng điểm quốc gia. Tinh thần xung kích, tình nguyện Lực lượng Thanh niên xung phong luôn thể hiện tinh thần xung kích, tình nguyện, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Họ là những người con ưu tú của dân tộc, là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo. Kỷ niệm ngày truyền thống lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những thế hệ Thanh niên xung phong đã hy sinh vì Tổ quốc, đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước, xung kích, tình nguyện trong mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ. |
*Lưu ý: Thông tin về lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam được thành lập vào ngày tháng năm nào chỉ mang tính chất tham khảo./.
Lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam được thành lập vào ngày tháng năm nào? Thiết bị dạy học trong môn Lịch sử được trang bị những gì? (Hình từ Internet)
Thiết bị dạy học trong môn Lịch sử được trang bị những gì?
Căn cứ mục VI Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT quy định về thiết bị dạy học trong môn Lịch sử như sau:
– Sử dụng thiết bị dạy học là một trong những điều kiện quyết định thành công của việc đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực.
– Cơ sở giáo dục cần có các thiết bị dạy học tối thiểu như: hệ thống bản đồ (bản đồ thế giới, bản đồ các châu lục, bản đồ Đông Nam Á và Việt Nam); tranh ảnh lịch sử, sa bàn, sơ đồ, biểu đồ với sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật như máy tính, đèn chiếu, máy chiếu, tivi, radio, video, các loại băng đĩa,…
– Lịch sử là môn học có hệ thống kiến thức thuộc về quá khứ, học sinh không thể trực tiếp quan sát. Công nghệ thông tin sẽ hỗ trợ việc tái hiện lịch sử thông qua các phim tài liệu, nguồn sử liệu, hình ảnh, video,… Giáo viên cần khai thác, sử dụng các chức năng cơ bản của Internet và các phần mềm tin học để đưa vào bài giảng các hình ảnh, âm thanh, tư liệu lịch sử,… góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, truyền cảm hứng để học sinh yêu thích môn Lịch sử.
Học sinh cần đạt yêu cầu gì trong môn Lịch sử?
Căn cứ mục VI Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT quy định về yêu cầu cần đạt của môn Lịch sử như sau:
(1) Yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung
Môn Lịch sử góp phần hình thành, phát triển phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể.
(2) Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù
Chương trình môn Lịch sử giúp học sinh phát triển năng lực lịch sử trên nền tảng kiến thức cơ bản và nâng cao về lịch sử thế giới, khu vực và Việt Nam thông qua hệ thống chủ đề, chuyên đề về lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, văn minh. Năng lực lịch sử có các thành phần là: tìm hiểu lịch sử; nhận thức và tư duy lịch sử; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.
Các biểu hiện cụ thể của năng lực lịch sử được trình bày cụ thể như sau:
– Tìm hiểu lịch sử:
+ Nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử; hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập.
+ Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể.
– Nhận thức và tư duy lịch sử:
+ Giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử.
+ Đưa ra được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.
– Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học:
Rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.
Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt