Tổng hợp 10 mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng bài Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa? Yêu cầu kĩ năng đọc văn bản thông tin đối với học sinh lớp 7 là gì?
10+ mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa?
Dưới đây là tổng hợp 10 mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa mà học sinh có thể tham khảo:
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 1:
Văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa. Đề cập đến phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc. Trong khoảng thế kỉ X – XVIII người miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã…sử dụng thuyền vận chuyển. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước (như gỗ dầu, gỗ sao). Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển. Ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, măng. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển nhất là những người dân tộc Gia -rai, Ê-đê, Mnông. Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc (thường sử dụng các loại gỗ dầu, sáo). Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phố biến với đàn ông. Có thể thấy các phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 2:
Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc vô cùng đa dạng nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Do địa hình đồi núi hiểm trở, đường sá đi lại khó khăn nên phần lớn người dân nơi đây di chuyển bằng cách đi bộ. Họ gùi hàng hóa trên lưng, mang theo trong các túi vải, sọt tre, di chuyển qua những con dốc, lối mòn trên núi. Tuy nhiên, với những tộc người sinh sống gần các con sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Chảy,… thì thuyền trở thành phương tiện vận chuyển phổ biến, giúp đi lại dễ dàng hơn giữa các vùng. Người Sán Dìu lại có một phương tiện rất đặc trưng là xe quệt trâu kéo – một loại xe thô sơ dùng sức kéo của trâu để chở hàng hóa. Trong khi đó, các dân tộc như Mông, Hà Nhì, Dao… thường sử dụng ngựa thồ để chuyên chở hàng hóa đi qua đèo dốc, những con đường dài xuyên rừng. Ngựa là loài vật có sức bền, thích nghi tốt với địa hình núi cao. Ở Tây Nguyên, các dân tộc thiểu số cũng dựa vào điều kiện tự nhiên để chọn phương tiện phù hợp. Họ thường dùng sức voi và sức ngựa trong việc chở hàng, vận chuyển gỗ, nông sản từ rẫy về buôn làng. Đặc biệt, các buôn làng sinh sống ven sông suối lớn còn dùng thuyền độc mộc – loại thuyền khoét từ thân cây gỗ lớn – để đi lại, chuyên chở hàng hóa trên sông, tạo nên một nét văn hóa rất riêng của cư dân Tây Nguyên. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 3:
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII, các dân tộc sinh sống ở vùng núi phía Bắc nước ta chủ yếu di chuyển bằng cách đi bộ. Đây là hình thức vận chuyển phổ biến nhất vì địa hình nơi đây chủ yếu là đồi núi, hiểm trở, ít đường đi. Tuy nhiên, bên cạnh việc đi bộ, một số dân tộc cũng đã sáng tạo ra những phương tiện vận chuyển phù hợp với điều kiện sống của mình. Ví dụ, người La Ha, người Thái – sống ven các con sông lớn như sông Đà, sông Mã – đã biết đóng thuyền, dùng bè, mảng để đi lại, buôn bán. Người Sán Dìu thì nổi bật với việc sử dụng xe quệt trâu kéo – một loại xe đơn giản nhưng hiệu quả để vận chuyển phân bón, lúa, củi từ rừng, nương rẫy về nhà. Trong khi đó, người Mông, Hà Nhì, Dao thường dựa vào sức ngựa để chuyên chở hàng hóa hoặc phục vụ việc đi lại giữa các bản làng. Ở vùng Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển lại mang nét đặc trưng khác. Các dân tộc nơi đây như người Ê-đê, Gia-rai, Mnông… thường dùng voi và ngựa làm phương tiện vận tải chính. Voi có thể chở gỗ, hàng hóa nặng, đi sâu vào rừng rậm hoặc vượt suối. Bên cạnh đó, những buôn làng ven sông, suối lớn ở Tây Nguyên cũng sử dụng thuyền độc mộc – loại thuyền được đục từ thân cây gỗ lớn – để vận chuyển trên mặt nước. Như vậy, mỗi vùng, mỗi dân tộc lại có cách vận chuyển riêng, phản ánh sự sáng tạo và thích nghi linh hoạt với điều kiện tự nhiên của mình. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 4:
Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XVIII, phần lớn các dân tộc sinh sống ở vùng núi phía Bắc Việt Nam vẫn chủ yếu di chuyển bằng cách đi bộ. Đây là hình thức phổ biến nhất do điều kiện địa hình hiểm trở, nhiều rừng núi, đường đi nhỏ hẹp, khó khăn cho việc sử dụng phương tiện. Tuy nhiên, ở một số dân tộc như người La Ha, người Thái, người Kháng sống ven các con sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Lam,… đã biết đóng thuyền, sử dụng thuyền, bè, mảng để vận chuyển, đi lại và trao đổi hàng hóa. Trong khi đó, người Sán Dìu lại phát triển loại xe quệt dùng trâu kéo, tiện lợi khi đi lại trên bờ ruộng, đường mòn hay các triền đồi thấp. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… sống ở vùng núi cao lại quen thuộc với việc dùng ngựa thồ hàng, vận chuyển nông sản và di chuyển giữa các bản làng xa nhau. Ở Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển lại có những nét đặc trưng riêng. Người Gia-rai, Ê-đê, Mnông,… thường dùng sức voi, sức ngựa để chở gỗ, hàng hóa hay di chuyển giữa các buôn làng. Đặc biệt, ở những nơi gần sông suối lớn, người Tây Nguyên sử dụng thuyền độc mộc được đục từ thân cây to, bền, nhẹ. Những chiếc thuyền này thường do đàn ông chế tác bằng cách kết hợp giữa rìu và lửa, thể hiện sự khéo léo và kinh nghiệm lâu đời. Như vậy, tuy sống ở vùng núi cao, nhưng các dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn biết sáng tạo ra nhiều phương tiện phù hợp với điều kiện sống, đồng thời phản ánh rõ nét đặc điểm văn hóa và môi trường sinh sống của từng tộc người. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 5:
Văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa đề cập đến phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc. Trong khoảng thế kỉ X – XVIII người miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã…sử dụng thuyền vận chuyển. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước (như gỗ dầu, gỗ sao). Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển nhất là những người dân tộc Gia -rai, Ê-đê, Mnông. Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc (thường sử dụng các loại gỗ dầu, sáo). Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phố biến với đàn ông. Có thể thấy các phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 6:
Trong khoảng thế kỷ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền và vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Những tộc người ở vùng núi cao như Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi người và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hóa. Khác với một số dân tộc miền núi phía Bắc dùng trâu làm sức kéo, các dân tộc vùng Tây Nguyên thường dùng sức sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê đê, Mnông. Ở các buôn, làng gần sông, suối, người Tây Nguyên thường sử dụng thuyền độc mộc để vận chuyển, thuyền không khác nhiều so với thuyền của các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Việc dùng thuyền trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 7:
Từ thế kỷ X đến thế kỉ XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc chọn đi bộ là cách di chuyển chính. Tuy nhiên, ở một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền để vận chuyển. Người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Những tộc người ở vùng núi cao như Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi người và dùng sức ngựa để vận chuyển đồ đạc, hàng hóa. Khác với một số dân tộc miền núi phía Bắc dùng trâu làm sức kéo, các dân tộc vùng Tây Nguyên thường dùng sức sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê đê, Mnông. Các buôn làng gần sông, suối, người Tây Nguyên thường sử dụng thuyền độc mộc để vận chuyển, thuyền không khác nhiều so với thuyền của các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Sử dụng thuyền trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 8:
Văn bản Phương tiện đi lại của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trước đây. Đề cập đến các phương tiện giao thông được sử dụng bởi các bộ lạc miền núi phía bắc. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18, các bộ lạc đồi phía bắc đã đi bộ. Một số dân tộc sống bên bờ sông Đà và sông Mã sử dụng thuyền để đi lại. Thuyền của họ được làm từ các loại gỗ chắc, nhẹ, không vỡ và chịu nước (gỗ dầu, gỗ sao, v.v.). Cư dân Sán Dìu sử dụng xe trâu để đi lại. Ngoài thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè mảng, lấy măng. Người Hmông, Hani, Dao, … thường sử dụng mã lực để vận chuyển. Phương tiện đi lại của các dân tộc Tây Nguyên. Người dân Tây Nguyên, đặc biệt là các dân tộc Gearai, Êđê, Munon sử dụng sức mạnh của voi và ngựa để đi lại. Ca nô (thường là gỗ xoan, sáo) được sử dụng trong các khu định cư và làng mạc dọc theo các con sông và suối chính. Sử dụng thuyền để vận chuyển và đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với nam giới. Có thể thấy, phương thức đi lại của đồng bào dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 9:
Văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa. Đề cập đến phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc. Trong khoảng thế kỉ X – XVIII người miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ là chính. Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã…sử dụng thuyền vận chuyển. Thuyền của họ được đóng bằng các loại gỗ dai, nhẹ, không nứt, chịu nước (như gỗ dầu, gỗ sao). Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển. Ngoài dùng thuyền, cư dân miền núi phía Bắc còn dùng bè, măng. Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển. Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển nhất là những người dân tộc Gia -rai, Ê-đê, Mnông. Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc (thường sử dụng các loại gỗ dầu, sáo). Việc dùng thuyền vận chuyển, đi lại trên sông ở Tây Nguyên chỉ phố biến với đàn ông. Có thể thấy các phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú. |
Mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa – Mẫu 10:
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, hầu hết cư dân sinh sống ở miền núi phía Bắc nước ta thường lựa chọn cách đi bộ là phương thức di chuyển chính. Tuy nhiên, ở một số vùng ven các con sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Lam,… các tộc người như Thái, Kháng, La Ha,… đã sớm biết tận dụng nguồn nước để đóng thuyền và di chuyển bằng đường thủy. Trong đó, nổi bật là loại thuyền đuôi én với hình dáng độc đáo, được người Thái và người Kháng đục đẽo kỳ công từ thân cây gỗ lớn. Còn người Sán Dìu thì sử dụng xe quệt trâu kéo – một loại phương tiện hữu ích cho việc vận chuyển hàng hóa trên các con đường nhỏ hẹp, đồi núi. Ở vùng cao hiểm trở, người Mông, Hà Nhì, Dao lại chọn ngựa làm phương tiện chính để vận chuyển đồ đạc và đi chợ. Trong khi đó, các dân tộc ở Tây Nguyên như Gia-rai, Ê-đê, Mnông lại có tập quán vận chuyển khác biệt, chủ yếu dựa vào sức voi, sức ngựa. Voi không chỉ dùng để kéo gỗ mà còn chở người, hàng hóa, đi lại qua rừng sâu. Những làng bản ven sông suối lớn thì dùng thuyền độc mộc – một loại thuyền được làm từ thân cây lớn, bền, nhẹ, có thể chịu được sức nước mạnh. Mặc dù khá giống với thuyền ở miền núi phía Bắc, nhưng ở Tây Nguyên, việc sử dụng thuyền chủ yếu do nam giới đảm nhận, phụ nữ thường không tham gia hình thức vận chuyển này. Những phương tiện vận chuyển đó phản ánh sự thích nghi linh hoạt của con người với môi trường sống và văn hóa riêng biệt của từng cộng đồng dân tộc. |
Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo!
10+ mẫu tóm tắt 10 đến 12 dòng văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa? (Hình ảnh từ Internet)
Yêu cầu kĩ năng đọc văn bản thông tin đối với học sinh lớp 7 là gì?
Căn cứ Mục 5 Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT quy định về yêu cầu đối với kĩ năng đọc văn bản thông tin của học sinh lớp 7 như sau:
(1) Đọc hiểu nội dung
– Nhận biết được thông tin cơ bản của văn bản.
– Nhận biết được vai trò của các chi tiết trong việc thể hiện thông tin cơ bản của văn bản.
(2) Đọc hiểu hình thức
– Nhận biết được đặc điểm văn bản giới thiệu một quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động, chỉ ra được mối quan hệ giữa đặc điểm văn bản với mục đích của nó.
– Nhận biết và hiểu được tác dụng của cước chú, tài liệu tham khảo trong văn bản thông tin.
– Nhận biết được cách triển khai các ý tưởng và thông tin trong văn bản (chẳng hạn theo trật tự thời gian, quan hệ nhân quả, mức độ quan trọng, hoặc các đối tượng được phân loại).
(3) Liên hệ, so sánh, kết nối
– Nhận biết được tác dụng biểu đạt của một kiểu phương tiện phi ngôn ngữ trong một văn bản in hoặc văn bản điện tử.
– Nêu được những trải nghiệm trong cuộc sống đã giúp bản thân hiểu hơn các ý tưởng hay vấn đề đặt ra trong văn bản.
(4) Đọc mở rộng
Trong 1 năm học, đọc tối thiểu 18 văn bản thông tin ( bao gồm cả văn bản được hướng dẫn đọc trên mạng Internet) có kiểu văn bản và độ dài tương đương với các văn bản đã học.
Ai là người có trách nhiệm thông báo cho cha mẹ học sinh về kết quả học tập của học sinh?
Căn cứ Điều 20 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định về trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm như sau:
Trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm1. Giúp Hiệu trưởng quản lí việc đánh giá học sinh của lớp học theo quy định của Thông tư này.2. Xác nhận việc sửa chữa điểm, sửa chữa mức đánh giá của giáo viên môn học; tổng hợp kết quả rèn luyện và học tập của học sinh từng học kì, cả năm học trong Sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học), Học bạ học sinh….6. Thông báo riêng cho cha mẹ học sinh về quá trình, kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
Như vậy, người có trách nhiệm thông báo cho cha mẹ học sinh về kết quả học tập của học sinh là giáo viên chủ nhiệm
Chuyên mục: Giáo Dục
Nguồn: THPT Phạm Kiệt

Giới thiệu tác giả cho website THPT Phạm Kiệt Sơn Hà
Tên tác giả: Khanh Nguyễn
Vai trò: Biên tập viên nội dung, người phụ trách thông tin và tin tức của THPT Phạm Kiệt Sơn Hà.
Giới thiệu:
Khanh Nguyễn là người chịu trách nhiệm cập nhật tin tức, sự kiện và hoạt động quan trọng của THPT Phạm Kiệt Sơn Hà. Với tinh thần trách nhiệm cao, tác giả mang đến những bài viết chất lượng, phản ánh chính xác những chuyển động trong nhà trường, từ các hoạt động đoàn thể đến công tác giảng dạy và thành tích của học sinh, giáo viên.
Với kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục và truyền thông, Khanh Nguyễn cam kết cung cấp những thông tin hữu ích, giúp phụ huynh, học sinh và giáo viên nắm bắt nhanh chóng các sự kiện quan trọng tại trường. Đặc biệt, tác giả luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến các phong trào thi đua, công tác đoàn thể và những thành tích nổi bật của trường trong từng năm học.
Lĩnh vực phụ trách:
Cập nhật tin tức về các hoạt động giáo dục tại trường.
Thông tin về các sự kiện, hội nghị, đại hội quan trọng.
Vinh danh thành tích của giáo viên, học sinh.
Truyền tải thông điệp của nhà trường đến phụ huynh và học sinh.